Cuộc vây hãm Vienna và tội phản quốc

Ngày 18 tháng 3 năm 2019

Cuộc vây hãm Vienna
và tội phản quốc

Tên khủng bố người Úc đã viết trên khẩu súng trường mà hắn dùng để giết 49 người Hồi giáo không vũ trang tại nhà thờ Hồi giáo: "Vienna 1683". Tất nhiên, 90% người Hồi giáo đọc được những dòng chữ này không hiểu chúng có nghĩa là gì. Vậy hãy cùng tìm hiểu chủ đề "Vienna 1683" và lý do tại sao tên khủng bố người Úc này lại viết dòng chữ này trên khẩu súng trường của hắn.

Trận chiến Vienna diễn ra vào ngày 20 tháng Ramadan năm 1094 AH / ngày 12 tháng 9 năm 1683 SCN. Sau khi Đế chế Ottoman bao vây Vienna trong hai tháng, trận chiến đã phá vỡ quyền bá chủ của Đế chế Ottoman ở châu Âu, khi lực lượng Ba Lan, Đức và Áo, do Vua John III Sobieski của Ba Lan chỉ huy, đã giành chiến thắng trước quân đội Ottoman do Đại tể tướng Kara Mustafa, chỉ huy lực lượng Ottoman, chỉ huy.

Người Ottoman và Vienna
Việc chinh phục Vienna từ lâu đã là giấc mơ của các sultan Ottoman, do tầm quan trọng chiến lược của nó trong việc kiểm soát các tuyến đường thương mại và vận tải ở trung tâm châu Âu. Mỗi lần như vậy, người Ottoman đều hài lòng khi trở về từ tường thành Vienna, sau khi đã giành được sự giàu có và có lẽ cả những vùng đất mới ở Đông hoặc Trung Âu theo các thỏa thuận với Đế quốc Áo.
Cuộc vây hãm đầu tiên diễn ra dưới thời Suleiman Đại đế, một thế kỷ rưỡi trước đó, sau khi ông xâm nhập vào châu Âu sau chiến thắng trước quân Hungary trong Trận Mohacs kinh hoàng. Quân đội của Đại đế tiến vào Budapest, thủ đô của Hungary, vào ngày 3 tháng Dhu al-Hijjah năm 932 AH / ngày 10 tháng 9 năm 1526 SCN, biến Mührestan thành một tỉnh khác của Ottoman và thiết lập quyền kiểm soát tuyệt đối của Ottoman ở Trung và Đông Âu.
Năm 1683, quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây Vienna lần thứ hai, nhưng Bá tước Starhamberg đã đẩy lùi được quân Thổ Nhĩ Kỳ trong trận chiến trên núi Kahlenberg. Sau đó, họ tái chiếm Budapest từ Đế chế Ottoman vào năm 1686, sau 145 năm Ottoman kiểm soát Budapest.

Trước trận chiến
Đức đang cạnh tranh với Ottoman ở Hungary và Slovakia, và Đại tể tướng Ottoman bận tâm với ý tưởng giáng một đòn mạnh để ngăn Đức can thiệp vào công việc nội bộ của Hungary. Kara Mustafa Pasha thuyết phục Quốc vương Ottoman Mehmed IV và Divan (Hội đồng Bộ trưởng) Hoàng gia tuyên chiến với Đức. Đại tể tướng Ahmed Pasha Köprülü khởi hành từ Edirne và đến Hungary với tư cách là người đứng đầu một đội quân lớn gồm khoảng 120.000 binh sĩ, được trang bị pháo và đạn dược trên 60.000 con lạc đà và 10.000 con la. Ông tiến vào Slovakia, phá hủy tất cả các công sự quân sự trên đường đi, hướng đến Lâu đài Nohzel, nằm ở phía tây bắc Budapest, cách Vienna khoảng 110 km về phía đông và cách Bratislava 80 km. Người Đức đã củng cố nó, biến nó thành một trong những pháo đài kiên cố nhất ở châu Âu. Quân đội Ottoman bắt đầu cuộc bao vây vào ngày Muharram 13, năm 1074 AH / ngày 17 tháng 8 năm 1663 SCN.
Cuộc vây hãm lâu đài của quân Ottoman kéo dài 37 ngày, buộc chỉ huy đồn trú phải yêu cầu đầu hàng. Đại Tể tướng đã đồng ý với điều kiện quân đồn trú phải rút khỏi lâu đài mà không được mang theo vũ khí hay đạn dược. Chiến dịch này đã gây ra một sự náo động dữ dội khắp châu Âu, gieo rắc nỗi sợ hãi và hoảng loạn trong lòng các vị vua nói chung. Sau khi lâu đài vĩ đại này đầu hàng, khoảng 30 lâu đài của Áo đã đầu hàng quân đội Ottoman.
Cuộc chinh phạt vĩ đại này đã đưa Ahmed Köprülü tiến quân cùng quân đội của mình, chinh phục các vùng Moravia (ở Tiệp Khắc) và Silesia ở Trung Âu.

Hội đồng chiến tranh
Đại tể tướng Kara Mustafa Pasha triệu tập một hội đồng chiến tranh trong quân đội của mình và tuyên bố sẽ chiếm Vienna và áp đặt các điều kiện của mình lên Đức tại đó. Ông nói rằng việc chiếm Yangkale, thành phố được coi là then chốt của Vienna và nằm cách Vienna 80 km về phía đông trên bờ tây sông Rab, sẽ không khuất phục được Đức và ngăn cản nước này can thiệp vào công việc nội bộ của Hungary.
Quyết định của Kara Mustafa Pasha gây ra sự nhầm lẫn và tranh cãi giữa các bộ trưởng. Bộ trưởng Ibrahim Pasha phản đối, khẳng định rằng mong muốn của Quốc vương Mehmed IV là chiếm Yangkala và tấn công Trung Âu bằng các lữ đoàn biệt kích Ottoman, và chiến dịch tấn công Vienna có thể sẽ diễn ra vào năm sau. Kara Mustafa Pasha trả lời rằng rất khó để một đội quân lại tập hợp với mật độ và sức mạnh như vậy, và vấn đề này đòi hỏi một đòn mạnh mẽ, quyết định vào quân Đức, nếu không chiến tranh với họ sẽ kéo dài, nhất là khi Đức đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Pháp và an toàn ở phía tây, và Hoàng đế Leopold đã đồng ý với Vua Ba Lan Sobieski khôi phục vùng Padoli, và Venice phải được đưa vào thỏa thuận này, và do đó Nga và các nước châu Âu còn lại sẽ tham gia liên minh Cơ đốc giáo này cùng với Đức. Điều này đòi hỏi phải phá vỡ và phá hủy liên minh mới chớm nở này trong năm đó, nếu không chiến tranh sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian không xác định.

Vị thế của Châu Âu
Các cường quốc châu Âu vội vã cứu Vienna khỏi sự sụp đổ. Giáo hoàng tuyên bố một cuộc thập tự chinh chống lại người Ottoman và ra lệnh cho Vua Ba Lan Sobieski phá vỡ hiệp ước của mình với người Ottoman. Ông cũng ra lệnh cho các hoàng tử Đức của Saxony và Bavaria, những hoàng tử châu Âu thân cận nhất, tiến về Vienna càng nhanh càng tốt. Quân đội châu Âu từ Ba Lan, Đức và Áo đã tập hợp, với số lượng 70.000 quân. Công tước Lorraine đã giao lại quyền chỉ huy chung cho Vua Ba Lan John III Sobieski. Công tác chuẩn bị của họ đã hoàn tất vào thứ Sáu, ngày 11 tháng 9, sau khi họ cảm thấy rằng Vienna chỉ còn vài ngày nữa là sụp đổ. Do đó, người châu Âu quyết định vượt qua Cầu Don, do người Ottoman kiểm soát, bất chấp chi phí, vì không thể chuyển hàng tiếp tế đến Vienna nếu không đi qua cây cầu này.

sự phản bội
Kara Mustafa đã bố trí một lực lượng Ottoman hùng hậu do Murad Karay, người cai trị Crimea, chỉ huy tại Cầu Don, con đường duy nhất dẫn đến Vienna từ phía tây, để ngăn chặn bước tiến của quân châu Âu. Murad Karay ra lệnh cho nổ tung cây cầu nếu cần thiết.
Ở đây, một điều đã xảy ra mà không ai, cả người Ottoman lẫn người châu Âu, đều không ngờ tới. Murad Karay đã phạm phải một sự phản bội lớn đối với Hồi giáo và người Hồi giáo khi cho phép người châu Âu vượt qua cầu mà không chiến đấu. Điều này là do lòng căm thù và thù địch của ông đối với Kara Mustafa. Mustafa Pasha ghét Murad Karay và đối xử tệ bạc với ông. Mặt khác, Murad tin rằng thất bại của Mustafa Pasha ở Vienna sẽ dẫn đến sự sụp đổ của quyền lực và vị trí lãnh đạo của ông. Vị thủ lĩnh phản bội này không bao giờ nghĩ rằng thất bại của quân Ottoman trước Vienna sẽ thay đổi tiến trình lịch sử thế giới. Do đó, Murad quyết định đứng ngoài quan sát trong khi các lực lượng châu Âu vượt qua Cầu Donya để phá vỡ vòng vây áp đặt lên Vienna, mà không hề động một ngón tay. Thêm vào đó, có những bộ trưởng và bey trong quân đội Ottoman không muốn Kara Mustafa Pasha trở thành người chinh phục Vienna, nơi Sultan Suleiman Đại đế đã thất bại.

Trận chiến quyết định
Vào thứ Bảy, tháng Ramadan 20, năm 1094 AH / ngày 12 tháng 9 năm 1683 SCN, hai đội quân đã gặp nhau trước tường thành Vienna. Người châu Âu vui mừng vì đã vượt qua Cầu Donna mà không phải đổ một giọt máu nào. Quân đội Ottoman vô cùng kinh ngạc khi thấy quân châu Âu ở phía trước sau khi vượt qua Cầu Donna. Tuy nhiên, Mustafa Pasha đã phát động một cuộc phản công, với hầu hết lực lượng của mình và một phần lực lượng Janissary tinh nhuệ, để xâm chiếm thành phố. Các chỉ huy Thổ Nhĩ Kỳ dự định chiếm đóng Vienna trước khi John III Sobieski đến, nhưng thời gian đã hết. Vào thời điểm đó, các công binh quân sự đã chuẩn bị một vụ nổ lớn và cuối cùng khác để mở đường vào thành phố. Trong khi người Thổ Nhĩ Kỳ vội vàng hoàn thành công việc của họ và bịt kín đường hầm để làm cho vụ nổ hiệu quả hơn, thì người Áo đã phát hiện ra hang động vào buổi chiều. Một trong số họ đã vào đường hầm và vô hiệu hóa vụ nổ vừa kịp lúc.
Một sự phản bội lớn khác đã xảy ra với Oglu Ibrahim, chỉ huy cánh phải của quân đội Ottoman, khi ông rút lui khỏi chiến trường. Sự rút lui này đã tác động lớn nhất đến thất bại của quân Ottoman. Kara Mustafa đã có thể rút lui một cách có tổ chức khỏi chiến trường, và trên đường trở về, Kara Mustafa đã xử tử cả Murad Karay và Oglu Ibrahim, nhưng điều này không giúp ích gì cho ông trước Sultan Mehmed IV, người đã ra lệnh xử tử ông.
Khoảng 15.000 lính Ottoman đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh, và gần 4.000 người châu Âu cũng thiệt mạng. Quân đội Ottoman đã bắt được 81.000 tù binh trong cuộc rút lui, và cuộc bao vây kéo dài 59 ngày đã kết thúc.

Kết quả trận chiến
Thất bại của Ottoman tại tường thành Vienna là một bước ngoặt trong lịch sử Ottoman và châu Âu. Với thất bại tại Vienna, Đế chế Ottoman đã mất đi động lực tấn công và bành trướng sang châu Âu. Thất bại này đánh dấu một sự bế tắc trong lịch sử Ottoman. Quân đội của liên minh Kitô giáo sau đó đã tiến hành chiếm đóng các vùng lãnh thổ Ottoman ở châu Âu trong những thế kỷ tiếp theo.

Tại sao chúng tôi tuyệt vời
Cuốn sách (Những ngày không thể quên... Những trang quan trọng trong lịch sử Hồi giáo) của Tamer Badr 

viVI